Thực Tại Được Giải Quyết:

“Ánh sáng sẽ bừng lên trong tăm tối và u tối sẽ trở nên như giữa ban ngày”

 

 

T

hật vậy, nếu chỉ cần đổ dầu hy vọng vào đèn đức tin, thế giới Kitô giáo Âu Mỹ nói chung và Âu Châu nói riêng sẽ bùng lên ngọn lửa đức mến thế nào, nhờ đó Giáo Hội Chúa Kitô sẽ tiếp tục sứ mệnh khẩn trương và tối hậu “soi sáng cho cả nhà” (Mt 5:15) là toàn thể gia đ́nh nhân loại, trong đó có cả thế giới vĩ đại đạo giáo Á Châu mới được 3% tín hữu Chúa Kitô, th́ quả thật, từ thập niên 1930 nhà sử gia Công giáo người Anh quốc, Christopher Dawson (1889-1970), trước hiện trạng đạo nạn (xem lại trang 241-248) đă có lư khi cho thấy một viễn quan về tương lai của một thế giới sẽ “cảm nghiệm và nhận thấy những ǵ đă sụp đổ được phục hồi và những ǵ đă già nua trở nên mới mẻ”, một viễn quan hoàn toàn phản ánh lời tiên tri Isaia xưa kia: “ánh sáng sẽ bừng lên trong tăm tối và u tối sẽ trở nên như giữa ban ngày” (Is 58:10).

 Tôi cho rằng người ta có thể hoài nghi là giai đoạn tục hóa căng thẳng hiện nay chỉ là một giai đoạn tạm thời vậy thôi, rồi sau đó sẽ có một phản ứng c̣n hơn thế nữa. Tôi c̣n muốn đi xa hơn thế nữa, v́ tôi cho rằng việc con người trở về với đạo nghĩa cho thấy đó là một trong những đặc tính nổi bật của thời đại tới đây. Tất cả chúng ta đều biết đường lối diễn tiến của lịch sử trong việc luân phiên tác động và phản ứng, cũng như chúng ta biết được mỗi thế kỷ và thế hệ đều có khuynh hướng tương khắc với những tiền biến của ḿnh ra sao rồi.

 

Thế nhưng, bên dưới những cơn sóng thay đổi nhỏ này là một biến chuyển ngầm ngấm hơn đang đánh dấu một tiến tŕnh nối tiếp nhau của các thời đại. Có những thời điểm khi mà tất cả tinh thần của nền văn minh được biến đổi và gịng lịch sử dường như xoay theo một chiều hướng mới. Một biến chuyển như vậy đă xẩy ra 1600 năm trước đây, khi thế giới cổ thời đă trở thành một thế giới Kitô giáo. Một biến chuyển khác cũng xẩy ra vào thế kỷ thứ 16, với những chủ xướng Phục Hưng và Cải Cách, những chủ xướng chấm dứt một thế giới thời trung cổ để mở màn cho một thời đại mới. Và những mănh lực đổi thay đang tác động trong thế giới ngày nay dường như cũng cho thấy đang xẩy ra một t́nh trạng thay đổi khác như thế, mang đặc tính của một nền văn minh, có lẽ c̣n sâu đậm hơn cả đặc tính của nền văn minh thế kỷ 16.

 

“Tất cả những biến chuyển nổi nang đó đă đánh dấu nền văn hóa của bốn thế kỷ mới đây đang qua đi để nhường chỗ cho những khuynh hướng mới. Chúng ta thấy điều này không những ở nơi lănh vực chính trị cũng như nơi việc tổ chức đời sống về vật chất, mà c̣n cả ở lănh vực nghệ thuật và văn chương cũng như khoa học nữa; chẳng hạn, ở khuynh hướng nghệ thuật tân thời, loại bỏ những nguyên tắc có tính cách tự nhiên đă từng chi phối việc phát triển của nó từ Thời Phục Hưng cho tới thế kỷ 19, một phát triển thiên về những qui định mới về kiểu cách hợp với nghệ thuật của thời Byzantium cũng như nghệ thuật của thời Đông cổ.  

 

Thật vậy, chúng ta không trở lại với Thời Trung Cổ, song chúng ta tiến tới một thời đại mới, một thời đại không khác với thời đại vừa rồi mấy, so với thời đoạn trung cổ.

 

Tuy nhiên, nếu xẩy ra như vậy th́ tôn giáo không phải là một trong những kiểu cách suy tư lỗi thời đang bị loại trừ rồi hay sao, và tân thời đại sẽ là một thời đại của chủ nghĩa duy lư, của trào lưu tục hóa và của chủ nghĩa duy vật ư? Như chúng ta thấy, đó là niềm tin tưởng hiện có, thế nhưng, những niềm tin tưởng hiện có đó bao giờ cũng lỗi thời. Khó có thể nhận ra được việc suy tư hiện hành thuộc về quá khứ đến mức nào, v́ tâm trí con người tự nhiên bị nhiễm bầu khí tâm thức của thế hệ trước đó, nên nó khó thấy được các sự vật đúng như sự thật, chứ không phải đúng như kẻ khác thấy chúng. Nghệ sĩ, triết gia và khoa học gia, mỗi người một đường lối, đều biết trực tiếp nhận định đời sống, nhưng đa số con người ta nh́n đời sống ở cấp độ thừa nhận những tư tưởng vốn quen thuộc trong xă hội và theo văn hóa của họ. Kết quả là những khuynh hướng chúng ta coi là đặc tính của thời đại lại thường là đặc tính của thời đại vừa mới qua đi hơn là đặc tính của thời đại hiện đang mở màn.

 

“Như thế th́ những khuynh hướng thực sự tỏ ra thù ghét đạo giáo và tạo nên trào lưu tục hóa cùng chủ nghĩa duy vật không phải là những khuynh hướng mới mẻ ǵ. Chúng đă có mặt ở Âu Châu qua nhiều thế kỷ. Toàn thể giai đoạn tân tiến từ thời Phục Hưng tới thế kỷ 19 là một tiến tŕnh cách mạng dài ḍng, một tiến tŕnh mà các giá trị cổ truyền về đời sống cũng như các nền tảng về đạo lư đă bị óc phê phán và nghi nan soi ṃn gặm nhấm. Nó là một thời đại phân tán tâm linh, một thời đại thế giới Kitô giáo bị phân chia thành một mớ những giáo phái cạnh tranh, để rồi các Giáo Hội chống lại các khuynh hướng này phải dùng đến một kỷ luật cứng rắn, đă đưa đến việc bắt đạo và chối bỏ quyền tự do cá nhân. Điều ấy lại đẩy tôn giáo vào cuộc đối chọi với tinh thần của thời đại; v́ nó là một thời đại của cá nhân chủ nghĩa, được chủ tŕ bởi lư tưởng tự do Phục Hưng tư tưởng, bởi lư tưởng tự do Cải Cách lương tâm, bởi lư tưởng kinh tế tự do theo cá nhân và bởi lư tưởng tự do cảm xúc và tác hành theo ḷng mơ tưởng. Nó là một thời đại của trào lưu tục hóa, một trào lưu chính quyền tự đặt ḿnh vào thế chỗ của Giáo Hội như là một thẩm quyền tối thượng nơi đời sống con người và là cùng đích của sinh hoạt xă hội. Nó là một thời đại chứng kiến thấy cuộc phát triển huy hoàng của chủ nghĩa duy vật theo khoa học, bắt nguồn từ cái lư thuyết chủ trương thế giới sinh hoạt theo máy móc, một lư thuyết loại trừ cả tự do con người lẫn thực tại linh thiêng.

 

“Ngày nay tiến tŕnh cách mạng này đă h́nh thành, khó có ǵ chống lại nó. Sau khi hủy hoại đi cái giá trị cũ, chúng ta đang bắt đầu quay trở lại t́m kiếm một nền tảng vững chắc nào đó khiến chúng ta có thể thực hiện việc tái kiến tạo. Chúng ta đang chứng kiến trong sinh hoạt xă hội t́nh trạng cá nhân chủ nghĩa đang qua đi và việc đang phục hồi lại cái cảm quan về cộng đồng. Chẳng hạn, trong lănh vực kinh tế, lư tưởng tự do thả lỏng và sáng kiến cá nhân của thế kỷ 19 đă nhường chỗ cho nhu cầu khẩn thiết trong việc tổ chức xă hội và kiểm soát xă hội.

 

“Nh́n từ quan điểm này th́ xă hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa không hoàn toàn là những biến chuyển có tính chất cách mạng và tiêu cực. Chúng đánh dấu một cái lượn của triều sóng. Kác-Mác là một trong những người đầu tiên cảm thấy cái thiếu hụt của truyền thống cách mạng cấp tiến, và cảm thấy nhu cầu cần đến một nỗ lực mới trong viêïc kiến tạo nên xă hội. Bởi thế ông ta đă xây dựng trên những ǵ, đối với thời đại của ông, là một nền tảng tối hậu – một rường cột cho chủ nghĩa duy vật theo khoa học. Thế nhưng, hôm nay đây, chúng ta nhận thấy rằng lư thuyết duy vật của thế kỷ 19 không c̣n tuyệt đỉnh hơn các lư thuyết khoa học bị nó chiếm chỗ nữa.

 

“Khoa học, một môn đă từng giải thích rất nhiều vấn đề, đă kết liễu bằng việc giải thích không dính dáng ǵ đến chính chất thể, và đă để lại cho chúng ta một cái khung vũ trụ theo mô thức toán học. Bởi thế, chúng ta không thể nào chấp nhận được nữa cái chủ nghĩa duy vật thơ ngây coi Chất Thể, được viết theo chữ hoa, như là một thực tại, v́ chúng ta thấy được rằng cái nền tảng trên thế gian này không phải là Chất Thể mà là Mô Thể. Vũ trụ không phải chỉ là một khối những phân tử đặc của chất thể bị chi phối bởi luật ấn định và ngẫu nhiên. Nó có một cấu trúc chặt chẽ, và chúng ta càng đào sâu vào bản chất của thực tại th́ nguyên tắc về giá trị này càng trở nên quan trọng...

 

“Chính trí khôn mới là chủ yếu của vũ trụ chứ không phải chất thể. Từ Ban Đầu đă có Lời, và chính quyền năng sáng tạo cũng như truyền đạt của Lời mới là nguồn gốc của thực tại.

 

“Và khi sự thật này vừa được công nhận th́ tôn giáo không c̣n hiện lên như là một yếu tố bất cần và phụ thuộc nơi văn hóa nữa, song là một yếu tố chủ yếu nhất của nó. V́ tôn giáo là mối giây liên kết con người với thực tại linh thiêng, và chỉ ở nơi tôn giáo xă hội mới t́m thấy nguyên lư của việc hiệp nhất thiêng liêng cần cho nó. Không có một lư tưởng trần thế về lănh vực tiến bộ xă hội hay về lănh vực hiệu năng kinh tế nào có thể thay thế được điều này. Chỉ có lư tưởng về giá trị thiêng liêng, là điều làm biến đổi giá trị tương đối của thế giới kinh tế cũng như chính trị, mới có thể thắng vượt được những mănh lực phân tán và hủy hoại nơi văn minh tân tiến mà thôi. Niềm tin vào tương lai không thể nào là vấn đề kinh tế hay khoa học hoặc ngay cả vấn đề luân lư đi nữa, mà phải là vấn đề đạo giáo.

 

“Đây chính là điểm thất bại của những thứ đạo giáo nhân tạo, chẳng hạn như của Niềm Tin Khoa Học. Những tôn giáo nhân tạo này thiếu một điều cần duy nhất, đó là đức tin của đạo giáo. Hoàn toàn sai lầm khi nghĩ rằng chúng ta có thể cập nhật hóa đạo giáo, bằng cách làm cho nó hợp với những ǵ chúng ta muốn và hợp với những thành kiến chủ yếu của thời điểm. Nếu chúng ta cảm thấy rằng xă hội tân tiến vượt ra ngoài tầm tay của khoa học, chúng ta sẽ không kêu gọi các khoa học gia thay đổi các quan điểm của họ và kêu gọi họ cung cấp cho chúng ta một cái ǵ đó phổ thông hơn. Chúng ta nhận ra rằng chúng ta cần phải hiến cho khoa học thêm tư tưởng và việc làm.

 

“Cũng thế, căn nguyên mạnh gây ra t́nh trạng suy yếu đạo giáo đó là chúng ta đă mất đi mối liên hệ với nó, hoặc bằng việc hoàn toàn loại trừ đạo giáo, hay bằng việc hài ḷng với niềm tin hữu danh bề ngoài không có tác dụng ǵ đến đời sống hằng ngày của chúng ta cũng như đến ích lợi thực sự của chúng ta cả. Và đường lối duy nhất để mang đạo giáo vào mối liên hệ với thế giới tân tiến là lấy nó làm ưu tiên trong tâm tưởng của chúng ta cũng như nơi đời sống của chúng ta. Nếu chúng ta muốn sống khoa học, chúng ta phải thuận phục thẩm quyền của khoa học, cũng như phải hy sinh việc dễ dàng chấp nhận các sự vật qua h́nh thức bề ngoài của chúng để tuân theo qui định ngặt nghèo của phương pháp khoa học. Cũng thế, nếu chúng ta muốn sống đạo, chúng ta phải thuận phục thẩm quyền của đạo và phải chấp nhận những nguyên tắc của lănh vực thiêng liêng. Nơi thế giới vật chất, con người phải làm cho ḿnh hợp với các thực tại, bằng không họ sẽ bị nguy tử. Đối với thế giới thiêng liêng cũng thế. Thiên Chúa là nhất, chứ không phải con người. Ngài có thực hơn toàn thể vũ trụ ngoại tại. Con người qua đi, các đế quốc cũng như các nền văn minh nổi lên rồi đổ xuống, các tinh tú già đời đi; trong lúc Thiên Chúa vẫn y nguyên như vậy.

 

Đó là chân lư căn bản hiện diện khắp Thánh Kinh. Dĩ nhiên là c̣n có những vấn đề quan trọng khác nữa nơi Kitô giáo. Thật vậy, trên thực tế nó là một chân lư Kitô giáo có chung một niềm tin với tất cả mọi tôn giáo trên thế giới. Tuy nhiên, nó cũng chính là chân lư mà thế giới tân tiến, cũng như thế giới trước đây, cảm thấy khó chấp nhận nhất. Thậm chí các bạn c̣n thấy người ta chối bỏ nó mà vẫn muốn cho ḿnh là Kitô hữu. Họ hạ tôn giáo xuống thành một loạt những điều thường thức về luân lư, rồi đánh bóng cái tráo trở nơi tính cách tôn giáo mập mờ này cùng với khuynh hướng lạc quan theo tinh thần luân lư bằng một tên gọi Kitô giáo khả kính.

 

“Thực ra Kitô giáo không phải chỉ là một lư tưởng về luân lư hay chỉ là một hệ tư tưởng. Nó thuộc về một lănh vực linh thiêng được hiện thân nơi một con người lịch sử và trong một xă hội lịch sử. Lănh vực linh thiêng ấy cũng có thật như lănh vực vật chất. Lư do chúng ta không thấy được lănh vực linh thiêng này là v́ chúng ta không nh́n vào nó. Chúng ta hướng chú tâm và suy tư của ḿnh ra chỗ khác. Chỉ có một số người ngoại lệ, như các nhà thần bí hay các triết gia, mới có thể quen sống ở lănh vực tâm linh, c̣n đối với người b́nh thường th́ nó là một bầu khí khó thở. Thế nhưng, Kitô giáo có phận sự phải làm cho lănh vực linh thiêng ấy gặp gỡ và liên hệ với thế giới loài người. Kitô giáo thực sự là một cây cầu giữa hai thế giới; Kitô giáo mang tôn giáo đến cho cuộc sống con người và mở cửa thế giới linh thiêng ra cho con người. Lư tưởng của Kitô giáo không phải là một lănh vực bất động và bất chuyển dịch như lănh vực của các tôn giáo khác trên thế giới. Kitô giáo là một tổ chức hay là cơ cấu thiêng liêng gắn liền với nhân loại, và theo đà tiến, Kitô giáo nhận lấy cho ḿnh tất cả những ǵ là tinh hoa và vững chắc nơi cuộc sống con người cũng như nơi văn minh con người. Kitô giáo không nhắm vào một cái ǵ khác ngoài việc làm cho tâm linh con người được liêm khiết, ngoài việc giải cứu con người khỏi cái chuyên chế của mănh lực vật chất cũng như khỏi việc chế ngự của các ước muốn vị kỷ, và ngoài việc tái thiết lập t́nh trạng hiệp nhất về tâm linh.

 

“Như thế là có hai đường hướng nơi Kitô giáo, cho dù đôi khi chúng có vẻ mâu thuẫn nhau, song lại thiết yếu như nhau, giống như hai cột trụ của lănh vực thiêng liêng vậy. Đường hướng về siêu việt tính được biểu hiện qua các yếu tố mạc khải, khổ chế,  xa lánh thế gian nơi đạo giáo, c̣n đường hướng công giáo, được thể hiện nơi sinh hoạt dính dáng đến thế gian của Giáo Hội, có tính cách lịch sử và thuộc về phương diện xă hội. Việc chú trọng một chiều theo đường hướng thứ nhất về siêu việt tính đă đưa đến t́nh trạng giáo phái, như chúng ta thấy nơi lịch sử của các giáo phái Kitô giáo ban đầu, những giáo phái chối bỏ tất cả những ǵ là dung ḥa với văn minh trần thế, để rồi đứng tách biệt ở ngoài lề với một thái độ cô lập tiêu cực và cằn cỗi.

 

“Thế nhưng, Giáo Hội Công giáo đă phủ quyết giải pháp này như nó là một phản chứng đối với sứ vụ phổ quát của ḿnh. Giáo Hội đă làm cho thế giới cổ thời; Giáo Hội đă trở thành Giáo Hội của Đế Quốc, và đă nhận lấy cho ḿnh cái di sản cổ truyền của một nền văn hóa bị khuynh hướng thanh tẩy của các giáo phái kinh tởm. Nhờ đó, Giáo Hội đă thắng vượt được cái tương khắc giữa đạo giáo với văn hóa trần thế, yếu tố làm suy yếu các lực lượng nơi xă hội của người Rôma, và Giáo Hội đă đặt các nền móng cho một nền văn minh mới.

 

Qua hơn một ngàn năm, xă hội đă đặt trọng tâm của t́nh trạng hiệp nhất của ḿnh, cùng với nguyên tắc tổ chức của ḿnh, nơi Kitô giáo. Thế nhưng, cái tổng hợp của thời trung cổ, cả theo thể thức Byzantine lẫn thể thức thời trung cổ, tuy có diễn tả hoàn toàn hơn bất cứ một thời đại nào khác về vai tṛ xă hội của Giáo Hội, cũng đă gặp phải cái nguy hiểm của việc dung ḥa đường hướng siêu việt tính Kitô giáo, khi nhận ch́m lănh vực thiêng liêng vào lănh vực trần thế – tức là đă đồng hóa Giáo Hội với Thế Gian.

“Lịch sử của thế giới Kitô giáo thời trung cổ đă cho thấy hàng loạt những cố gắng liên tục về phía các nhà cải cách bênh vực truyền thống, đó là những người thuộc giáo phái Catharist và ‘tâm linh’ đă tỏ ra chống lại việc tục hóa và có tính cách trần gian của Giáo Hội. Thế rồi, Tây Âu càng tăng tiến về giầu sang phú quí và về văn hóa trí thức th́ lại càng khiến cho t́nh trạng này căng thẳng hơn nữa.

 

“Đó là thời Phục Hưng, và việc Ngôi Giáo Hoàng hết ḷng chấp nhận nền văn hóa nhân bản mới này đă kéo căng cái tổng hợp của thời trung cổ đến độ đứt đoạn và gây ra một cuộc bùng nổ phát xuất từ trào lưu giáo phái cải cách. Chủ thuyết Công giáo thực sự đă đụng độ với phong trào Cải Cách, ở việc phong trào này chủ trương canh tân lănh vực linh thiêng. Thế nhưng phong trào ấy lại thất bại trong việc phục hồi t́nh trạng hiệp nhất đă bị mất mát nơi thế giới Kitô giáo, và đă bị đẩy đến chỗ mất liên hệ với những phong trào chủ yếu nơi văn hóa thế tục.

 

Thế là Kitô giáo càng ngày càng rút lui vào thế giới sống đạo cá nhân, và thế giới đă đi theo đường lối của ḿnh. Văn minh Âu châu đă được duy lư hóa và trần tục hóa cho đến khi thậm chí chấm dứt cả việc mang danh hiệu là Kitô giáo nữa. Tuy nhiên, cái vốn liếng chất chồng của Kitô giáo trong quá khứ vẫn tồn tại một cách vô thức, cái vốn liếng đă làm phát sinh ra chủ nghĩa lư tưởng về luân lư và xă hội, chủ nghĩa gây nên những phong trào về nhân bản, cấp tiến và dân chủ trong hai thế kỷ qua. Cái vốn liếng linh thiêng ấy ngày nay đă cạn kiệt, và văn minh phải đối diện với việc chọn lựa, một là trở về với các truyền thống thiêng liêng của Kitô giáo, hai là chối bỏ chúng để hoàn toàn theo chủ nghĩa duy vật xă hội.

 

Nếu muốn lấy lại ảnh hưởng của ḿnh, Kitô giáo phải tái phục hồi t́nh trạng hiệp nhất của ḿnh cũng như sinh hoạt xă hội của ḿnh. Chủ nghĩa cá nhân sống đạo của thời đại trước đây, một chủ nghĩa ngụp lặn vào cái tôi trong vấn đề phần rỗi cá nhân, cũng như trong vấn đề cảm xúc đạo nghĩa tư riêng, sẽ không giúp ǵ cho chúng ta hết.

 

“Kitô giáo của ngày mai phải là một Kitô giáo xă hội, một Kitô giáo hiện thân thành một xă hội thực sự, chứ không phải là một xă hội tưởng tượng hay vô h́nh. Và xă hội này không được chỉ là một phần của lănh vực xă hội và chính trị hiện hữu, như trường hợp các giáo hội được thiết lập xưa kia; xă hội ấy phải là một xă hội độc lập và phổ quát chứ không phải là một xă hội quốc gia hay địa phương.

 

Cái xă hội duy nhất có thể làm trọn được những điều kiện này đó là Giáo Hội Công giáo, một giáo hội cổ xưa nhất song đồng thời cũng là cơ cấu thích ứng nhất trong tất cả các tổ chức hiện hữu.

 

Chủ nghĩa Công giáo thực sự đă phải chịu đựng xót xa cái cảnh phân rẽ giáo phái và t́nh trạng cấu xé giằng co của bốn trăm năm qua, thế nhưng chủ nghĩa này đă thành công trong việc vượt qua cuộc khủng hoảng xuất phát lâu đời này, một cuộc khủng hoảng phát xuất việc thất bại của cái tổng hợp thời trung cổ, và chủ nghĩa này, hôm nay đây, lại đứng nổi bật như một trung tâm của hiệp nhất và của lănh vực thiêng liêng duy nhất c̣n tồn tại ở Âu châu.

 

Nếu Kitô giáo cần thiết cho Âu châu thế nào th́ Giáo Hội Công giáo cũng không kém cần thiết cho Kitô giáo như vậy, v́ không có Giáo Hội Công giáo, Kitô giáo sẽ không hơn ǵ một khối ư nghĩ xa biệt nhau, bị phân tán bởi áp lực của khuynh hướng phê phán duy lư và văn hóa trần tục. Chính nhờ có lư tưởng hiệp nhất linh thiêng của Công giáo mà t́nh trạng hiệp nhất xă hội nơi văn hóa Âu châu mới được nhú lên từ t́nh trạng đầy những man di mọi rợ của ḿnh, và thế giới tân tiến cũng không thể không cần đến một lư tưởng như vậy, nếu nó cần phải hiện thực trong tương lai một t́nh trạng hiệp nhất rộng răi hơn cho nền văn minh thế giới.

 

“Thế nhưng, mặc dầu Kitô giáo cần cho văn minh, chúng ta cũng không được quên cái khác nhau sâu xa ở nơi cả hai. Chính cái nghịch thường cả thể của Kitô giáo, như Newman thường hay nhấn mạnh, mà dù Kitô giáo có là một nguyên lư của sự sống cho nền văn minh, ngay cả trong những vấn đề trần tục, đi nữa, th́ Kitô giáo vẫn không ngừng có vấn đề với thế giới và lúc nào cũng gần như bị nó hủy diệt. Bởi vậy, Giáo Hội cần cho Âu châu, song việc chấp nhận Giáo Hội v́ Giáo Hội cần cho xă hội lại hủy hoại đi chính cái yếu tính thực sự của Giáo Hội. Không ǵ nguy hại cho tinh thần Kitô giáo cho bằng việc trở về với Kitô giáo chỉ v́ lư do chính trị.

 

“Tuy nhiên, chưa hết, bất cứ việc nỗ lực nào cố gắng kiến tạo nên một đạo giáo thuần túy chính trị hay xă hội cũng đều bị thất bại nữa. Không ǵ đáng chú ư hơn là việc sụp đổ của tất cả mọi nỗ lực cố gắng h́nh thành nên một thứ đạo giáo nhân tạo để giải quyết ‘những nhu cầu của thời đại’. Chỉ duy tôn giáo nào có thể biến đổi các thứ loại chính trị cũng như kinh tế, và không màng tới các thành quả về vật chất, mới có năng lực đáp ứng nhu cầu của thế giới mà thôi.